Chuyên
gia về đạo đức học Thomas Donaldson đã đưa ra gợi ý về một phương pháp
để giải quyết những vấn đề này. Giả sử trong trường hợp của việc hối lộ
nhỏ nhặt là không được phép thực hiện tại nước sở tại nhưng lại có thể ở
nước chủ nhà (nước nhận đầu tư), Donaldson khuyến cáo các nhà quản lý
nên đặt ra hai câu hỏi. Thứ nhất, điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh
doanh tại nước chủ nhà có đang tham gia vào thực tiễn việc này không?
Nếu không thì ngay sau đó công ty nên tham gia vào; và sau đó nó sẽ
không được phép diễn ra tại nước sở tại, công ty đã có lý do chính đáng
để không tham gia vào. Thứ hai, liệu việc này có xâm phạm bất cứ nhân
quyền quan trọng nào được xác định bởi các hiệp ước quốc tế mà cả nước
sở tại và nước chủ nhà đều phải cam kết hay không? Thậm chí trong một số
trường hợp cần thiết phải làm như vậy thì các công ty cũng không nên
xâm phạm nhân quyền. Chúng ta phải công nhận rằng, một số sự chi trả là
cần thiết cho các nhà cầm quyền để xúc tiến một số công việc là cần
thiết tại một số quốc gia và không làm tổn hại đến nhân quyền. Donaldson
có thể nhận ra một trường hợp như vậy từ việc tham gia vào điều kiện
làm việc không an toàn và có thể thực sự xâm phạm tới quyền cơ bản của
con người.
Nguyên lý và quy tắc
Qua
thời gian, chúng ta đã phát triển được một số điều khái quát từ việc
đánh giá những điều chúng ta làm là đúng hay sai. Những khái quát này
được dựa trên giá trị và bổn phận của chúng ta về quyền hạn và nghĩa vụ
được thực hiện và những kinh nghiệm của chúng ta về hậu quả mong đợi hay
phòng tránh. Chúng ta thâu tóm những khái quát này dưới dạng thức những
nguyên lý và quy tắc.
Đối với hầu hết những vấn đề về đạo đức, chúng ta đặt ra một loạt những nguyên lý và quy tắc được đa số tán đồng. Đạo đức thông thường
là một hệ thống những quy tắc quyết định cách sống của chúng ta. Giữ
lời hứa, giúp đỡ lẫn nhau, tôn trọng người khác, tôn trọng của cải và
nhiều hơn thế nữa luôn là những nguyên lý không thể thay đổi, bao quát
tất cả những hoạt động hàng ngày của chúng ta. Chúng ta được học những
đạo lý này từ khi còn nhỏ và phát huy chúng trong hầu hết những tình
huống xã hội.
Kinh
doanh ở đây không phải là trường hợp ngoại lệ. Những người kinh doanh
giữ lời hứa, đối xử với người khác bằng sự tôn trọng, chân thật và giúp
đỡ người khác khi họ có thể làm như vậy với chi phí không đáng kể. Hơn
thế nữa, khi thấy một ai đó không sống theo những nguyên tắc phổ thông
đó, chúng ta sẽ đặt câu hỏi về nhân cách của anh ta hay cô ta. Nhà tư
vấn kinh doanh Stephen Covey gần đây cũng đã gợi ý rằng, chúng ta xem
xét quan điểm về thuật lãnh đạo bằng cách sống theo đạo lý và tán thành
những điều tương tự đối với người khác.
Tuy
nhiên, một số tình trạng khó xử về đạo đức nảy sinh trong một vài
trường hợp. Thứ nhất, công nghệ mới khiến chúng ta không thể chắc chắn
về việc làm thế nào để một nguyên tắc được ứng dụng. Ví dụ, chúng ta có
quyền được riêng tư và nghĩa vụ tương ứng nhằm thể hiện sự tôn trọng
quyền riêng tư của người khác và chúng ta phải tuân theo nguyên tắc “nếu
không phải trong trường hợp khẩn cấp, bạn không nên can thiệp vào
chuyện riêng tư của người khác.” (Mệnh đề “nếu không” bao gồm những
trường hợp bạn có thể cứu một ai đó bằng cách can thiệp vào). Thông
thường, chúng ta đồng ý rằng, thư từ cá nhân hay tài liệu và nhiều thứ
khác được coi là những chuyện riêng tư của mỗi người. Tuy nhiên, công
nghệ máy tính mới có thể thay đổi quan niệm này. Thư điện tử, hộp thư
thoại, tài liệu điện tử, Lotus Notes và trang web có thể buộc chúng ta
phải suy nghĩ lại về khả năng ứng dụng nguyên tắc này. Một số vấn đề khó
xử quan trọng chắc chắn sẽ xảy ra.
Các
nguyên tắc có thể bị nghi ngờ khi chúng ta bắt gặp một xã hội hay một
nền văn hóa thực hiện mọi việc một cách khác biệt hoặc nó vẫn áp dụng
những nguyên tắc như vậy nhưng theo những cách khác nhau. Ví dụ, trong
nhiều nền văn hóa, nguyên lý về quyền tự do xuất bản không được áp dụng
một cách rộng rãi như ở Mỹ. Chúng ta cần thảo luận và tranh cãi nhiều
hơn để tìm ra cách làm thế nào mà những nguyên tắc của chúng ta có thể
hay không thể áp dụng vào những tình huống như vậy.
Một
thách thức thứ ba với những nguyên tắc và đạo đức thông thường có thể
bắt nguồn từ những nhóm mới đang được giao quyền hành trong xã hội. Thực
chất trong thế giới kinh doanh ngày nay, quyền hành được giao cho nhiều
phụ nữ cũng như tộc người thiểu số tại những nơi làm việc buộc chúng ta
phải suy nghĩ lại về những khuynh hướng có thể xảy ra trong môi trường
công việc. Ý tưởng kính trọng có thể được hiểu khác theo vai trò của
giới tính. Chúng ta không cần những nguyên tắc mới, nhưng chúng ta cần
những tranh luận mới về cách hiểu cũng như khả năng ứng dụng của chúng.
Những trường hợp tương tự
Khi đối mặt với
tình thế khó xử về mặt đạo đức, trong đó những nguyên tắc mâu thuẫn
nhau nhưng không có những hậu quả xác định, giá trị và quyền hạn ở đó
không thực sự giúp chúng ta tìm ra câu trả lời, chúng ta cần đến những
trường hợp tương tự. Chúng ta cần tìm kiếm những trường hợp mà chúng ta
đã biết đến và để lập luận suy đoán từ những trường hợp đó tới trường
hợp tương tự nhưng không rõ ràng.
Hãy
xem xét trường hợp của H.B. Fuller Company, nhà sản xuất keo dán mang
nhãn hiệu Resistol. Keo dán này đang bị lạm dụng bởi những đứa trẻ ở
Honduras, những kẻ được gọi là Resistoleros. Một trường hợp tương tự có
thể là một ai đó đang lái xe trong khi say xỉn. Chiếc xe đang bị sử dụng
không theo đúng cách của nó và nếu có vụ đâm xe nào xảy ra thì chúng ta
không thể đổ lỗi cho nhà sản xuất được. Ở một khía cạnh khác, chúng ta
xem xét phản ứng của Johnson & Johnson đối với cuộc khủng hoảng
thuốc Tylenol, trong đó rất nhiều người đã thiệt mạng do sản phẩm bị giả
mạo. Mặc dù J&J không có lỗi, nhưng doanh nghiệp cũng đã rút sản
phẩm ra khỏi thị trường. H.B. Fuller đã cân nhắc những trường hợp tương
tự vậy để tìm ra một đường lối phù hợp với những giá trị công ty và
những kì vọng đạo đức tại cả Honduras và Mỹ. Trên thực tế, công ty đã
tiến hành một chương trình giáo dục và dịch vụ xã hội mở rộng nhằm cố
gắng giúp đỡ những người đã bị tác động và ngăn chặn việc sử dụng nhầm
những sản phẩm đó. Thực chất phương pháp này đã chỉ ra chính xác và rõ
ràng bản thân sản phẩm theo cách nó đang tiếp diễn.
MỘT PHƯƠNG PHÁP TÌM HIỂU CHỦ NGHĨA TƯ BẢN XÉT VỀ KHÍA CẠNH ĐẠO ĐỨC
Một
cách để kết nối kinh doanh và đạo đức là bắt đầu tìm hiểu xem những
việc kinh doanh đó có thể ảnh hưởng nhiều hơn tới các cổ đông hay không.
Thực tế thì khách hàng, nhà cung cấp, nhân viên, cộng đồng và các cổ
đông đều bị ảnh hưởng bởi hoạt động kinh doanh theo nhiều cách. Các nhóm
này được biết đến như những cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp
đến việc kinh doanh (stakeholder) trong doanh nghiệp. Thuật ngữ này cố
gắng nêu ra chính xác những người bị ảnh hưởng bởi kinh doanh và để vạch
ra những mối quan hệ bao gồm giá trị tạo ra doanh nghiệp.
Khái
niệm “stakeholder” được phát triển trong những năm 1960 qua công việc
của những nhà lý luận quản lý Eric Rhenman, Igor Ansoff, Russell Ackoff
cùng các sinh viên của họ. Ý tưởng được kết nối với truyền thống lâu
đời, nhìn nhận việc kinh doanh như một phần không thể thiếu của xã hội
hơn là hoàn toàn như một cơ quan kinh tế riêng rẽ về bản chất. Việc xác
định và phân tích các cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến
việc kinh doanh là cách đơn giản truyền thống để hiểu sự tồn tại của các
cử tri trong tập đoàn. Sự hiểu biết sâu sắc chính là các thành viên ban
quản trị phải có mối quan tâm chiến lược tới các nhóm đóng vai trò quan
trọng đối với thành công của tập đoàn.
Như
đã đề cập trước đó, gần đây chúng ta đang chứng kiến sự nổ trội của
những biến động mạnh mẽ liên quan đến đạo đức kinh doanh. Rất nhiều hành
động liên quan đến đạo đức kinh doanh như sự cố tràn dầu, những vụ xì
căng đan tài chính, sự cấu kết thông đồng giữa doanh nghiệp với chính
phủ và những trường hợp nổi tiếng đáng báo động. Tuy nhiên, một số ít
các nhà tư tưởng bắt đầu đặt câu hỏi về mục đích của các tập đoàn. Công
ty nên phụng sự những người cùng chia sẻ cổ phần hay những người bị ảnh
hưởng bởi những hành động của nó? Sự lựa chọn là không gì cả: các công
ty có thể làm để phục vụ các cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp
đến việc kinh doanh hoặc các cổ đông.
Hầu
hết những nhà quản lý cấp cao chín chắn đều biết rằng sự lựa chọn giữa
các cổ đông và các cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc
kinh doanh không phải là vấn đề. Các công ty cần phải tạo lợi nhuận ở
mức độ được xác định bởi thị trường vốn toàn cầu. Các chuyên gia điều
hành không còn phớt lờ sự thật rằng dòng vốn lưu chuyển tự do qua biên
giới và tỷ lệ lợi nhuận đó rắc rối, phức tạp hơn là nó được chỉ ra bởi
những tỉ lệ tài chính tổng hợp vượt rào nội tại và giản đồ lợi tức thu
được từ đầu tư. Kinh doanh ngày nay thực sự là một vấn đề toàn cầu.
Hầu
hết các chuyên gia điều hành thận trọng đều biết rằng những công ty lớn
đều không được xây dựng nên bởi mối quan tâm ám ảnh đến giá trị cổ
đông. Những công ty lớn phát triển một phần ngoài ý thức chia sẻ mục
đích giữa những người làm thuê và sự quản lý. Mục đích này phải đủ quan
trọng đối với mỗi cá nhân để mở rộng vốn của chính họ nhằm tạo ra và
phân phối những sản phẩm và dịch vụ mà khách hàng luôn sẵn sàng chi trả
để có được chúng. Chúng ta chỉ cần quay lại với sự uyên thâm của Peter
Drucker và W. Edwards Deming để thấy được tầm quan trọng của ý nghĩa và
mục đích cũng như sự tàn phá của nỗi sợ hãi và sự xa lánh, ghét bỏ trong
cuộc sống doanh nghiệp.
Những
nhà lý luận quản lý như Tom Peters, Charles Handy, Jim Collins và Jerry
Poras đã đưa ra một loạt ví dụ chỉ ra cách làm thế nào mà nhân viên,
khách hàng và các nhà cung cấp làm việc cùng với nhau để tạo ra một cái
gì đó mà không ai trong số họ có thể thực hiện điều đó một mình. Và
nguồn vốn là điều kiện cần thiết để duy trì quá trình tạo ra giá trị
này. Từ Cadbury tới Volvo, Nordstrom hay Hewlett-Packard, tất cả đều
không ngừng gắn kết với những mối quan hệ sâu sắc với các cá nhân hay
tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh doanh.
Theo
quan điểm này thì các quyền lợi của cổ đông và cá nhân hay tập thể có
quyền lợi trực tiếp đến việc kinh doanh thường gắn kết với nhau hơn là
mâu thuẫn, đối lập nhau. Cổ đông là nhóm cá nhân hay tập thể có quyền
lợi trực tiếp đến việc kinh doanh quan trọng mà sự hỗ trợ của họ phải
được duy trì theo cách đó: sự hỗ trợ của khách hàng, nhà cung cấp và
nhân viên phải được thu lại. Vấn đề nằm ở việc cân bằng những mối quan
tâm của các nhóm này chứ không phải thiên vị một nhóm nào và gây bất lợi
cho những nhóm khác. Hơn thế nữa, trong một hệ thống chính trị tương
đối tự do, khi các nhà điều hành phớt lờ lợi ích của một nhóm các cá
nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh doanh thì những
nhóm này sẽ sử dụng quy trình chính trị để buộc luật pháp bảo vệ chính
họ. Bằng chứng là sự nổi trội của “quyền stakeholder” tại Mỹ dưới dạng
thức là luật lao động, luật bảo vệ khách hàng, luật bảo vệ môi trường
(cộng đồng), thậm chí là luật bảo vệ các cá nhân hay tập thể có quyền
lợi trực tiếp đến việc kinh doanh.
Khá
đơn giản để nói rằng, có nhiều cách để quản lý một công ty thành công.
Các phong cách quản lý của Daimler Chrysler sẽ khác so với phong cách
của Volvo. Những phương pháp của Proter & Gramble sẽ khác với các
phương pháp của Unilever. Tuy nhiên, tất cả đều bao gồm trong nó mối
quan hệ tương tác giữa người lao động – cả cấp quản lý hay không quản lý
đều như nhau – với các cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến
việc kinh doanh quan trọng. Càng tham gia vào những quyết định có ảnh
hưởng đến bản thân, các cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến
việc kinh doanh sẽ càng có khả năng lớn hơn để cam kết về tương lai của
doanh nghiệp.
Đối
lập với quan điểm chung về hoạt động kinh doanh là ý thức hệ kinh doanh
truyền thống như chúng ta đã đề cập đến trước đó: tách kinh doanh ra
khỏi khía cạnh đạo đức, cho rằng kinh doanh nằm ngoài phạm vi đạo đức,
rằng đạo đức kinh doanh là một phép nghịch hợp, và kinh doanh chỉ làm
theo những gì mà các cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc
kinh doanh yêu cầu. Theo triết lý cổ xưa này thì kinh doanh được nhìn
nhận như một cuộc chiến tranh, những nhà cầm quyền như những chiến binh
đơn độc trên trận đánh thị trường toàn cầu, và ở đó có những cuộc đọ
súng với những đối thủ cạnh tranh. Theo sự tưởng tượng của các cổ đông
thì kinh doanh như “chủ nghĩa tư bản thiếu thiện chí” dẫn tới những hiểu
lầm và mất niềm tin cơ bản vào những quá trình sẽ làm cho công ty thành
công. Chúng ta cần một câu chuyện mới- một câu chuyện nâng kinh doanh
lên một mảnh đất đạo đức cao hơn- và một câu chuyện mang hương vị của lẽ
thường và thực tế trong thế giới kinh doanh ngày nay.
Chủ
nghĩa tư bản cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh
doanh nói đúng ra là đã hình thành, và là một câu chuyện mới mà chúng ta
cần biết đến. Chủ nghĩa này được dựa trên năm nguyên tắc (xem minh họa
4.2), mỗi nguyên lý đều thực sự quan trọng để nhớ nếu chúng ta muốn chủ
nghĩa tư bản này sẽ phục vụ chúng ta trong thế kỷ 21.
Thứ nhất, nguyên tắc về sự hợp tác của cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh doanh chỉ
ra rằng, giá trị được tạo ra bởi vì các cá nhân hay tập thể có quyền
lợi trực tiếp đến việc kinh doanh cá thể cùng nhau thỏa mãn những nhu
cầu và khát vọng của họ. Kinh doanh không phải là một trò chơi mà kết
quả cuối cùng của nó chỉ là con số không. Chủ nghĩa tư bản hoạt động bởi
vì các doanh nghiệp và những nhà quản lý cùng nhau giải quyết và duy
trì mối quan hệ giữa khách hàng, nhà cung cấp, nhân viên, chuyên gia tài
chính và cộng đồng. Sự hỗ trợ của mỗi nhóm đóng vai trò quan trọng với
thành công của những nỗ lực, cố gắng. Nó là phần tất yếu và quan trọng
của hoạt động kinh doanh mà mọi nhà quản lý đều biết, nhưng sự tưởng
tượng ưu việt của các cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến
việc kinh doanh nói với chúng ta rằng một số họ là quan trọng hơn những
người khác. Cố gắng xây dựng một công ty lớn mà không có sự hỗ trợ của
tất cả các stakeholder thì điều đó đơn giản là không thể.
Chính điều này mang đến cho chúng ta nguyên tắc thứ hai: trách nhiệm của các cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh doanh Nếu
một doanh nghiệp, một nhà quản lý hay một doanh nghiệp luôn có trách
nhiệm với những ảnh hưởng do hoạt động của họ thì khách hàng, cộng đồng,
nhà cung cấp, các chuyên gia tài chính và nhân viên cũng sẽ có trách
nhiệm. Doanh nghiệp không phải là những người chịu trách nhiệm duy nhất
trong thế giới ngày nay. Khách hàng có nghĩa vụ để sử dụng những sản
phẩm khi họ có nhu cầu quan tâm, hay nó sẽ mang đến gánh nặng của trách
nhiệm, khi họ không có nhu cầu. Những nhân viên có trách nhiệm hỗ trợ
những người chủ của họ trong phạm vi có thể. Những nhà cung cấp có nghĩa
vụ làm cho chuỗi cung cấp của họ hoạt động một cách chính xác và hiệu
quả. Cổ đông có trách nhiệm bầu ra các giám đốc có trách nhiệm, người sẽ
gánh vác nhiệm vụ quan trọng quản lý sự hoạt động của tập đoàn. Sự quan
tâm gần đây tới sự bóc lột nhân công tàn tệ trong một thế giới đang
phát triển đã làm dấy lên những vấn đề liên quan trách nhiệm của các
công ty về những hành động của các nhà thầu phụ.
Thứ ba, nguyên tắc về sự phức tạp
chỉ ra rằng, con người là những phần tử rắc rối có thể hoạt động dựa
trên những giá trị khác nhau. Chúng ta không chỉ là những người phóng
đại kinh tế. Đôi khi, chúng ta cũng tỏ ra ích kỷ, thỉnh thoảng lại hào
phóng, vị tha. Rất nhiều những giá trị của chúng ta được quyết định kết
hợp lại và chia sẻ. Chủ nghĩa tư bản hoạt động chính nhờ sự phức tạp chứ
không chỉ đơn thuần là chính nó.
Thứ tư, nguyên tắc về sự sáng tạo không ngừng
chỉ ra rằng, kinh doanh như một tổ chức là nguồn tạo ra giá trị. Hợp
tác với các cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh
doanh và khuyến khích họ bằng những giá trị, con người sẽ không ngừng
tạo ra những nguồn giá trị mới. Lực lượng sáng tạo của loài người chính
là bộ máy của chủ nghĩa tư bản. Vẻ đẹp của hình thức hợp tác hiện đại là
nó có thể tạo nên những sáng tạo không ngừng hơn là sự phá hủy. Một sự
sáng tạo không phải là phá hủy đi cái khác, hơn thế nữa, nó có một chu
kỳ liên tục tạo giá trị, khuyến khích sự thể hiện hết mình của mỗi
người. Con người cùng nhau liên kết tạo nên một điều gì đó, có thể là
một chương trình máy tính mới, một mức độ dịch vụ mới, một phương thức
chữa trị cho người bệnh hay đơn giản chỉ là một mối quan hệ lớn hơn.
Cuối cùng, nguyên tắc cạnh tranh
chỉ ra rằng, sự cạnh tranh nổi lên từ một xã hội tương đối tự do và dân
chủ và vì vậy các cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc
kinh doanh có quyền lựa chọn. Sự cạnh tranh nổi lên bên ngoài sự hợp tác
giữa các cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh doanh
chứ không dựa trên một vài thôi thúc căn bản để chống lại người khác.
Sự cạnh tranh rất quan trọng trong chủ nghĩa tư bản, nhưng nó không phải
là lực lượng cơ bản. Trong khả năng của mình, cạnh tranh là nhằm quản
lý tình trạng căng thẳng được tạo nên bởi sự hợp tác đồng thời cũng như
sự cạnh tranh mà chủ nghĩa tư bản stakeholder tự nhận ra.
Chủ
nghĩa tư bản cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh
doanh chiếm một vị trí đạo đức vững chắc: con người được yêu cầu để trở
thành trung tâm của bất kỳ quá trình tạo giá trị nào, những phép tắc và
sự công bằng không thể đặt bên cạnh trò chơi kinh doanh, chúng ta nên
đòi hỏi hành vi ứng xử tốt nhất của hoạt động kinh doanh, và chúng ta
nên diễn một câu chuyện kinh doanh để tôn vinh những thành tựu cũng như
khiển trách những thất bại của nó, và cùng chia sẻ những đạo lý trong xã
hội như một vấn đề thông thường.
Chủ
nghĩa tư bản cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh
doanh không phải là một phương thuốc bách bệnh. Nó đơn giản cho phép
một khả năng rằng, kinh doanh có thể trở thành một cơ quan hữu cơ hoàn
chỉnh. Luôn có những người kinh doanh cố gắng tận dụng lợi thế từ người
khác, cũng luôn có những chính quyền, những nhân viên, giới tăng lữ và
các chuyên gia tham nhũng, mục nát. Chủ nghĩa tư bản cá nhân hay tập thể
có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh doanh dựa trên những hiểu biết và
kì vọng của chúng ta về kinh doanh, không phải trên những điều tồi tệ
nhất chúng ta có thể làm mà là trên những điều tốt đẹp nhất. Nó thiết
lập những tiêu chuẩn đạo đức cao, nhận ra những lẽ thường, trải nghiệm
thế giới kinh doanh toàn cầu ngày nay và yêu cầu những nhà quản lý để
thực hiện tốt nhất nhiệm vụ tạo ra giá trị cho tất cả các cá nhân hay
tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh doanh.
NHỮNG THÁCH THỨC ĐẠO ĐỨC TRONG KINH DOANH
Trong
môi trường kinh doanh toàn cầu ngày nay, các nhà quản lý phải học cách
đương đầu với một loạt những vấn đề đạo đức. Những vấn đề về giao thoa
văn hóa là kết quả tất yếu của việc chạm trán theo những cách khác nhau
trong hoạt động kinh doanh - nói cách khác, đó là một loạt những giả
định khác nhau về con người và động lực của họ. Ví dụ, một vấn đề giao
thoa văn hóa điển hình là việc đút lót, hối lộ. Trong một vài quốc gia,
ví dụ như Mỹ, việc hối lộ các quan chức là một hoạt động xã hội không
thể chấp nhận được (là vi phạm luật pháp), trong các quốc gia khác, sự
chi trả cho việc thuyết phục các quan chức chiều theo một yêu cầu nào đó
là việc làm đúng mực. Tặng quà, các chi phí tiếp khách, thể hiện sự
thiên vị, chiều chuộng đối với họ hàng của các quan chức hay họ hàng của
những khách hàng quan trọng là tất cả những vấn đề mà cả thế giới đang
phải đối mặt. Ở đó vẫn có sự khác biệt to lớn trên toàn cầu về vấn đề
tuyển dụng đối với phụ nữ và những nhóm người thiểu số, lương tối thiểu
và điều kiện làm việc. Những nhà quản lý cần đặc biệt chú ý tới những
vấn đề này theo những cách phức tạp để có thể biện minh một cách mạch
lạc chính sách công ty.
Chuyên
gia về đạo đức học Thomas Donaldson đã đưa ra gợi ý về một phương pháp
để giải quyết những vấn đề này. Giả sử trong trường hợp của việc hối lộ
nhỏ nhặt là không được phép thực hiện tại nước sở tại nhưng lại có thể ở
nước chủ nhà (nước nhận đầu tư). Donaldson khuyến cáo các nhà quản lý
nên đặt ra hai câu hỏi. Thứ nhất, điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh
doanh tại nước chủ nhà có đang tham gia vào thực tiễn việc này không?
Nếu không thì ngay sau đó công ty nên tham gia vào; và sau đó nó sẽ
không được phép diễn ra tại nước sở tại, công ty đã có lý do chính đáng
để không tham gia vào. Thứ hai, liệu việc này có xâm phạm bất cứ nhân
quyền quan trọng nào được xác định bởi các hiệp ước quốc tế mà cả nước
sở tại và nước chủ nhà đều phải cam kết hay không? Thậm chí trong một số
trường hợp cần thiết phải làm như vậy thì các công ty cũng không nên
xâm phạm nhân quyền. Chúng ta phải công nhận rằng, một số sự chi trả là
cần thiết cho các nhà cầm quyền để xúc tiến một số công việc là cần
thiết tại một số quốc gia và không làm tổn hại đến nhân quyền. Donaldson
có thể nhận ra một trường hợp như vậy từ việc tham gia vào điều kiện
làm việc không an toàn và có thể thực sự xâm phạm tới quyền cơ bản của
con người.
Một nhóm các vấn đề đạo đức khác có thể gọi là vấn đề cạnh tranh
như việc tái cơ cấu tổ chức, khế ước xã hội mới áp dụng cho những người
làm thuê, gắn kết giá trị cá nhân với giá trị của công ty, outsourcing,
nhân viên hợp đồng lao động tạm thời, việc di chuyển sản xuất ra nước
ngoài và nhiều vấn đề nữa là tất cả những vấn đề đạo đức trong môi
trường kinh doanh hiện tại. Việc chú tâm vào những vấn đề này với lý do
“tôi chỉ làm những gì tốt nhất cho kinh doanh” cũng không thể miễn cho
các nhà quản lý khỏi việc tạo ra những biện hộ, bào chữa về mặt đạo đức.
Chúng tôi đưa ra gợi ý rằng, những vấn đề này có thể được quan tâm tốt
nhất trong hệ thống cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc
kinh doanh, nhưng bất chấp công nghệ thông tin sẵn có ngày nay, chúng
phải được chú ý theo cách thông qua việc kiểm tra công khai.
Giải pháp của chúng tôi liệu có thể đáp ứng được những vấn đề trên? Điều
gì xảy ra khi những điều chúng tôi làm được in trong một tờ báo? Vấn đề
cạnh tranh là công khai, đặc biệt đối với những công ty đa quốc gia.
Việc giải quyết những vấn đề này một cách khác nhau tại những quốc gia
khác nhau là một chiến lược không thể phòng thủ được một cách nhanh
chóng.
Thường
thì sự lựa chọn xảy ra giữa “khi ở Rome thì hãy làm như người Rome làm”
và “khi ở Rome thì hãy làm như chúng ta vẫn làm ở Charlottesville”. Sự
lựa chọn thứ hai không tôn trọng người Rome và dẫn tới một chủ nghĩa đế
quốc về đạo đức thực sự không thỏa đáng. Sự lựa chọn thứ nhất là không
tôn trọng chính những giá trị của chúng ta và dẫn tới thuyết tương đối
về đạo đức và những vấn đề đạo đức tình huống trái ngược với quan điểm
đạo đức. Có thể chúng ta nên đưa ra một lựa chọn khác “Khi ở Rome thì
hãy làm như chúng ta và người Rome có thể đồng ý.” Sự chỉ dẫn đó cho
thấy tầm quan trọng của việc tìm hiểu và thảo luận về sự kết nối giữa
đạo đức và kinh doanh.
Nhóm
cuối cùng trong các vấn đề về đạo đức là những vấn đề đạo đức hàng
ngày. Sự đánh giá cách thể hiện chân thành, sự cởi mở trong giao tiếp,
ủy quyền hợp pháp cho nhân viên, giải quyết những phàn nàn của khách
hàng, đối xử công bằng với những nhà cung cấp, thể hiện thành tích của
doanh nghiệp một cách chân thành, giải quyết những khó khăn của nhân
viên, gia đình và những vấn đề liên quan đến công việc, sự quấy rối tình
dục, sự phân biệt chủng tộc trong việc tuyển dụng và những quyết định
thăng chức, và hành động quả quyết chỉ là một trong vài những vấn đề đạo
đức mà công ty cần quan tâm hàng ngày. Có không ít các vấn đề phức tạp,
tuy nhiên, có thể sử dụng sáu câu hỏi sau để hướng dẫn phân tích những
vấn đề đó:
- Các
cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực tiếp đến việc kinh doanh là những
ai? Ai bị ảnh hưởng bởi vấn đề này và ảnh hưởng như thế nào? Mỗi bên có
mối đe dọa gì?
- Những
giá trị quan trọng nhất cho mỗi cá nhân hay tập thể có quyền lợi trực
tiếp đến việc kinh doanh là gì? Mỗi cá nhân hay tập thể có quyền lợi
trực tiếp đến việc kinh doanh bị ảnh hưởng hay hưởng lợi như thế nào từ
những lựa chọn được xem xét?
- Quyền và nghĩa vụ đối với vấn đề đó là gì?
- Những nguyên tắc và quy tắc gì tương ứng với nó?
- Một vài trường hợp tương tự là gì?
- Chúng ta nên làm gì?
Những
câu hỏi này đưa ra không nhiều hơn một sự khởi đầu phân tích để chất
vấn về đạo đức trong kinh doanh. Vai trò của đạo đức trong kinh doanh có
thể tăng lên bởi sự phức tạp của những vấn đề bao hàm trong nó. Những
nhà điều hành hiệu quả ngày nay phải có khả năng tinh tế trong việc quan
tâm đến cả hai vấn đề đạo đức và kinh doanh.
(Còn nữa)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét